Kinh Vu lan ghi lại những lời Đức Phật dạy về lòng thương yêu, bổn phận của con cái đối với cha mẹ hiện tiền hay quá cố, đối với những người đang trầm luân trong những khổ cảnh, nghịch cảnh và cách thức thể tình cảm, bổn phận ấy bằng những việc làm cụ thể, nhân dịp thưa hỏi của Ngài Mục Kiều Liên.
Ngoài việc trở thành một dịch giả vĩ đại của kinh điển Đại thừa, đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh đến nay đã có trên 70 năm tụng kinh. Lời khai thị của Hòa thượng dưới đây có ý nghĩa rất lớn cho người đọc tụng và thọ trì kinh để mở mang tâm trí và thâm nhập kinh tạng.
Dưới cội cây Bồ Đề (Bodhirukkha), vào ngày trăng tròn tháng Vesak năm 623 TCN, đức Bồ Tát Siddhattha đã trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddho) duy nhất và tối thượng nhất trong tam giới này.
Sau khi xuất gia, thọ giới Tỳ kheo ni, bà Kiều Đàm Di có pháp danh là Ma-ha Ba-xa-ba-đề (Mahaprajapati), dịch nghĩa sang Hán ngữ là Đại Ái Đạo. Bà hết sức kính cẩn thực hành theo lời Phật dạy. Đối với mọi người, bà không còn nghĩ rằng mình là hoàng hậu của nước Ca-tỳ-la-vệ, và cũng không ỷ thế là di mẫu của đức Phật. Bà luôn khiêm cung, tinh tấn, nhiệt tình với mọi việc.
Ở đâu có nước, ở đó có màu xanh, ở đâu có màu xanh ở đó có sự sống, sức sống của nhiều quốc gia dân tộc đã bắt nguồn từ dòng sông, sông Mekong là một trong những con sông dài nhất thế giới, khởi nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, chảy ngang tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Dòng sông đã tạo ra nền văn minh sông nước, dung chưa nhiều ý tưởng khác biệt, khai thác lợi ích từ dòng sông đã gây nhiều nghiệp quả khốc liệt. Phật giáo hiểu đó là nghiệp, đề xuất cách ứng xử đồng nhất để chuyển nghiệp Cộng đồng cư dân sông Mekong.
Thập mục ngưu đồ (zh. 十牧牛圖, ja. jūgyū-no-zu) là mười bức tranh chăn trâu nổi tiếng trong Thiền tông, tương ứng với quá trình hành đạo của một người phát nguyện đạt Giác ngộ. Mười bức tranh này có thể xem là biểu hiện cô đọng nhất, trình bày tinh hoa của Phật giáo Đại thừa.
BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT) sẽ tổ chức Đại giới đàn Huệ Đăng từ ngày 22 – 26-11-2020 (nhằm ngày 8 – 12-10-Canh Tý) tại tổ đình Đại Tòng Lâm, Ni viện Thiện Hòa dành cho giới tử Bắc tông và chùa Hộ Pháp, dành cho giới tử Phật giáo Nam tông Kinh. Bên thềm Đại giới đàn, BQT Website có cuộc trao đổi với HT.Thích Quảng Hiển, Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh BR-VT, Trưởng ban Tổ chức Đại giới đàn Huệ Đăng PL.2564.
Đời là thế, đạo nào có khác. Tôi ngẩm nghĩ buồn thương, Tư duy quán chiếu. Không phải để thấy người, mà để thấy chính tôi. Thấy tâm mình bao la vô tận, thênh thang bất diệt đáng yêu, mà cũng nhỏ nhoi đê hèn ích kỷ đáng ghét.
Xin hết thảy chúng ta đều sáng ý tỏ lòng nụ cười thanh thoát trên bình nguyên thức tâm thanh tịnh ngời sáng mà tưởng chừng mới nhập được lần đầu để in sâu trong kho tàng kí ức với vô lượng khinh an, nghe hương giới tràn ngập mãi mãi, ngân vang sâu thẳm suốt một đời.
Thời đại nào, mà người tu sĩ nép mình trong nếp sống thiền môn quy cũ, nghiêm trì giới luật, đạo đức sạch trong thì đó là thời kỳ hưng thịnh của Phật pháp, và ngược lại. Tất cả, tất cả vì mục đích duy trì chánh pháp mà Đại Giới đàn Thiện Hòa VI được tổ chức để “Tuyển Phật trường”.
Không phải có hiếu là mua những chúng sanh tươi ngon về hầm nấu cho cha mẹ dùng. Không phải có hiếu là để cho cha mẹ luôn luôn hưởng thụ những thức ăn ngon, vì đó chỉ là hiếu ở thế gian. Làm con phải biết phân định rõ ràng, trước sau. Ta đi tu nhưng ta luôn hướng về cha mẹ để cầu nguyện cho người và chúng sanh.
Dù có đi bất cứ nơi đâu, tôi luôn nghĩ nhớ và tự hào về Đại Tòng Lâm, miền đất Thánh. Nơi đây đã gắn kết cuộc đời tôi với bao kỷ niệm vui buồn khó tả, từ những ngày ban sơ mới khai sơn, rồi chứng kiến bao cuộc đổi thay cũng như từng bước trưởng thành của nó. Nhưng hơn bao giờ hết, Đại Tòng Lâm mãi là ngôi phạm vũ cho chúng ta trở về, nương tựa.
Ô hay, Vạn Phật Quang Đại Tòng Lâm đã điểm một dấu son trên trang sử Phật giáo Việt Nam và nở nụ cười tinh khôi với tất cả những ai trở về.
Nhớ lại, khi đến “Tuyển Phật trường” sao mà yên ổn, tĩnh lặng, an lạc quá. Trong đời người chơn tu, thật học nên ghi nhớ kỹ giây phút này để làm nhựa sống, hành trang trân quý suốt lộ trình cho đến khi nào sáng đạo mới thôi. Song, không thể nói suông lý thuyết mà phải tác ý như lý.
Thương mến làm sao những danh từ Hòa thượng Đàn Đầu, Giáo thọ A-xà-lê, Yết-ma A-xà-lê, Tam sư, Thất chứng. Chỉ nghe thôi là nhuệ khí trong con đã được đốt lên, lòng tràn ngập niềm yêu mến Đạo. Nhớ những lúc được quỳ mọp trên nền đất, với tâm vô cùng tôn kính và quy ngưỡng, con nghe hân hoan như được sống lại 2500 năm trước, được ôm chân bụi của Phật, cần cầu Đạo giải thoát.
Tăng đoàn Tỳ-kheo Tăng và Tỳ-kheo-ni là đại diện của Tam bảo là Tăng bảo, một trong ba nơi nương tựa vững chắc cho Chúng sanh Phật tử có đức tin nương tựa tu hành đắc chứng đạo quả.“Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo Sư của các Ngươi.”
Người đứng ra điều hành giải quyết mọi việc sinh hoạt của một tập thể Đại tăng vừa Phàm lẫn Thánh như vậy, được gọi là Tỳ-kheo Doanh Sự, cũng như chức vụ Trị sự ngày nay. Chức vụ này, đối với chúng Tăng rất là quan trọng và rất khó làm.
Thành tựu Chánh kiến thì người tại gia và xuất gia đều như nhau, nghĩa là đều tôn kính Tam bảo làm Thầy, làm mục tiêu cho lý tưởng hướng thượng. Song việc thành tựu Tịnh giới thì tại gia và xuất gia có sự bất đồng về mặt giới tướng.
Tìm hiểu về cuội nguồn, về quá trình lịch sử thành lập giới đàn là để chúng ta ý thức rằng: Dòng suối Luật tạng sẽ truyền lưu bất tận trong lòng vũ trụ, để nuôi dưỡng sự sống vĩnh cửu cho Phật Pháp, cho cây đời được mãi xanh tươi. Sự thọ giới, trì giới và truyền giới là trách nhiệm hàng đầu của hàng đệ tử xuất gia và sự gặp nhau giữa đoàn thể Tăng già quá khứ cùng hiện tại là ở đó.
Lâu nay ta thường sống theo vọng duyên, bị trần cảnh chi phối làm ta buông lung những cái đó gọi là nghiệp và giới điều ràng buộc nghiệp ta lại. Thầy Tỳ-kheo không nên cho rằng giới ràng buộc mình, mà phải thấy rằng giới ràng buộc nghiệp của ta, giúp ta được giải thoát, (do nghiệp ta được giới khống chế) từ đó ta mới có thể trở thành vị thanh tịnh Tăng.